Chương trình tu học của học viện hoàn toàn miễn phí. Ở đây các tăng sinh được cung cấp chỗ ở, thức ăn cũng như dụng cụ học tập miễn phí. Điều kiện ghi danh là các thí sinh phải trong độ tuổi không quá bốn mươi, là tăng sĩ hoặc có nguyện vọng xuất gia nhận giới tăng sĩ. Thí sinh phải có nguyện vọng chuyên cần tu tập Phật pháp và hoàn tất các chương trình tu học dài hạn từ sơ cấp cho đến cao cấp tại học viện (trong vòng từ 9 đến 15 năm). Các tăng sinh ngoại quốc không biết Tạng ngữ và Anh ngữ sẽ được đặc biệt huấn luyện Tạng ngữ trong ba năm đầu cho đến khi họ có thể theo học các lớp cao hơn. Cách tốt nhất để học một ngôn ngữ mới là sống trong môi trường khi tất cả mọi người chung quanh hoàn toàn dùng ngôn ngữ đó. Một số tăng sinh ngoại quốc không biết Tạng ngữ khi bắt đầu đến học viện. Họ đã rất thành công hội nhập và trở thành những tăng sinh rất xuất sắc .
Nyingma có nghĩa là cổ xưa. Phật giáo được truyền bá ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ 7, 8 và 9 được gọi là Nyingma. Trong những thế kỷ này, các vị vua Tây Tạng như Songtsen Gompo, Trisong Deotsen và Triralpachen đã thỉnh mời Padmasambhava (hay còn được gọi là Guru Rinpoche, Việt dịch: Đức Liên Hoa Sanh), Shanta Rakshitta và nhiều Đạo sư khác từ Ấn Độ đến Tây Tạng. CácĐạo sư đã ban cho tất cả các quán đảnh, giáo huấn, khẩu truyền và giáo lý của các truyền thống Phật giáo Nguyên Thuỷ (Hinayana), Đại thừa (Mahayana) và Kim Cương thừa (Vajrayana) cho các đạo sinh Tây Tạng. Thông qua sự thực hành, nhiều hành giả đã đạt được giác ngộ và phát triển các quả vị thành tựu trong cuộc đời của họ. Ngay cả hiện nay, chúng ta cũng có thể tìm thấy truyền thống Nyingma nguyên thủy và chính thống trên toàn thế giới. Do đó, Nyingma là truyền thống Phật giáo đầu tiên của Tây Tạng. Nyingma quảng bá những giáo lý và truyền thống nguyên thủy của Phật giáo. Nyingma cũng là Phật giáo nguyên thủy của Sikkim, vì bốn bậc thầy vĩ đại của Sikkim (Ngaljor Cheth shi) đều là những hành giả Nyingma.