Đức Kim Cương Tát Đỏa

Giải thoát nhờ sự nghe trong Bardo – Bardo vào lúc chết

Tối nay tôi muốn bàn về Bardo của Giây Phút Chết, “sự giải thoát tự nhiên nhờ sự chuyển di tâm thức, nó làm rõ ràng điều không xác quyết”. Nó tương tự việc nhận một ân xá từ một vị vua. Sự tương đồng này muốn nói tới một tình huống ở đó một người bị nhà vua bắt đi đày bỗng nhiên nhận được tin cho biết lệnh ân xá đã được ban ra và anh ta được tự do trở về. Người ấy sẽ cảm thấy vững tin và không còn sợ hãi khi nghe những tin tức đó. Tương tự như vậy, bởi nhận lãnh các giáo huấn trực chỉ về sự tự-xuất hiện và tiến trình chết như con đường, là điều trước đây đáng sợ, không chắc chắn và không rõ ràng, thì thình lình nó rõ ràng và hiển nhiên. Đó là lý do tại sao các bạn cần thực hành Giáo Pháp sâu xa này và được chuẩn bị đầy đủ cho giây phút chết.

Giây phút chết này cũng được gọi là “sự coi giây phút chết như con đường”. Nếu các bạn nhận lãnh và thực hành các giáo lý về sự chuyển di tâm thức này, các bạn sẽ có khả năng tiếp cận giây phút chết mà không sợ hãi. Các bạn sẽ hoàn toàn được chuẩn bị để diện kiến định mệnh của các bạn không chút nghi ngại. Bằng cách nhận lãnh các giáo lý về phowa từ một bậc thầy tâm linh có phẩm chất, các bạn bắt gặp một thực hành để phân biệt giữa samsara (sinh tử) và Nirvana (Niết bàn). Các bạn nhận được cơ hội để thực sự vượt qua vòng sinh tử. Các bạn phải chuẩn bị cho giây phút chết trong khi các bạn còn sống. Nếu các bạn đã từng chuẩn bị, khi giây phút cái chết đến các bạn sẽ nhớ lại rõ ràng các giáo huấn trực chỉ và sử dụng chúng. Điều này sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào sự thực hành mà các bạn đã hoàn tất trong đời các bạn.

Ngài Jetsun Milarepa nói : “Vì sợ chết, tôi chạy trốn vào núi để thiền định và nhớ lại sự vô thường của cuộc đờiĐạt được chỗ an nghỉ bẩm sinh và bất biến của sự bất tử là sự tỉnh giác bên trong về cái chết và lẽ vô thường.” Nếu ta được chuẩn bị cho cái chết thì cũng giống như đang được chuẩn bị cho cuộc chiến đấu : khi biết quân địch đang đến gần thì điều khôn ngoan là có vũ khí trong tay. Cũng thế, khi chuẩn bị cho giây phút chết, là một thời điểm của nỗi đau khổ to lớn, các bạn cần được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt giây phút đó một cách trực tiếp và chiến thắng nó. Các bạn phải lợi dụng cơ hội để thực hành trong khi các bạn còn sống. Toàn bộ một cuộc đời thực hành Pháp được thể hiện vào giây phút chết. Cực kỳ quan trọng vào lúc chết là các bạn phải an trụ không phóng tâm và phải sử dụng các giáo huấn trực chỉ mà các bạn đã được ban cho.

Từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, chúng ta ở trong Bardo Đời Này. Từ lúc bệnh tật hay điều kiện (duyên) sẽ gây nên cái chết của chúng ta bắt đầu cho tới khi hơi thở bên trong bị trục xuất, chúng ta kinh nghiệm Bardo Giây Phút Chết. Khi chúng ta chết, chúng ta từ giã thế giới này và mọi sự trong đó. Chúng ta từ bỏ gia đình, bạn bè và những người thân yêu của ta. Chúng ta phải chia lìa với tất cả những người đã từng rất thân thiết với ta cũng như chia lìa với tài sản của ta và mọi sự là quan trọng trong suốt đời ta. Các câu kệ gốc viết : “Tôi sẽ từ bỏ mọi bám chấp, khát khao và tham luyến vào lúc chết.” Cực kỳ quan trọng là phải buông bỏ sự tham luyến của các bạn đối với những hiện tượng của đời này. Theo cách này, các bạn có thể tập trung một cách rõ ràng vào các giáo huấn các bạn đã nhận lãnh trong đời này và các thực hành các bạn đã hoàn tất. Vào lúc chết, các bạn có thể thực sự chứng ngộ tịnh quang vô sinh và đi vào pháp tánh, nhưng điều đó sẽ tùy thuộc vào sự thực hành mà các bạn đã hoàn tất.

Sự chuẩn bị tốt nhất cho cái chết là hoàn thiện hai giai đoạn của thực hành Dzogchen trong suốt đời các bạn. Chúng là trekchod, sự cắt đứt để đi vào cái thuần tịnh nguyên sơ, và tošgal, sự vượt qua với sự hiện diện tự nhiên. Nếu điều này không thể làm được, thì các bạn nên chuẩn bị bằng cách nhận các giáo huấn về phowa, sự chuyển di tâm thức vào lúc chết. Một cá nhân có thể đã từng nhận được mọi giáo huấn cần thiết để thành tựu Dzogchen, hay kinh nghiệm các sắc tướng như ảo tưởng huyễn hóa, hoặc Bardo của Trạng Thái Mộng nhưng có thể không đủ khả năng để thành tựu sự thực hành. Những người không có cơ hội để thực hành các kỹ thuật sâu xa do những phóng tâm trong các hoạt động hàng ngày có thể là những nhà lãnh đạo, những gia chủ v.v… Trong những trường hợp như thế, các giáo huấn sâu xa bị mất hút trong đời sống đó. Vì thế tâm thức vẫn cần đến một phương pháp nhờ đó sự giác ngộ có thể được thành tựu mà không cần thiền địnhPhương pháp đó là phowa, cũng được nhắc đến như sự tự-giải thoát ngay trên nhận biết, nó cho phép một người không thiền định đi vào một trạng thái tỉnh giác giải thoát khỏi vòng sinh tử và như thế ám chỉ tới một nơi chốn an nghỉ bất biến. Với phowa, một người bình thường vẫn có một cơ may để đạt được giải thoát bằng cách tự quen thuộc với kỹ thuật sâu xa này.

Có hai giai đoạn đối với thực hành phowa : sự chuẩn bị trước cái chết và sự chuyển di tâm thức thực sự vào lúc chết. Giai đoạn đầu tiên được thực hành khi các bạn còn khỏe và vẫn còn có thể thực hành nó. Không có sự thực hành phowa, các bạn sẽ không sẵn sàng vào lúc chết và sẽ không có sự chuyển di tâm thức vào lúc đó. Các bạn cần chuẩn bị tâm thức cho sự không thể tránh được của cái chết và sự chuyển tiếp xảy ra trong cách thức tương tự cách những con chim di trú từ những khí hậu lạnh lẽo tới khí hậu ấm áp trong mùa đông. Biết rằng cái chết không thể tránh được và thời gian của nó thì bất định, các bạn nên thành tựu sự thực hành càng sớm càng tốt. Trong cách này, các bạn có khả năng du hành tới đích điểm của các bạn mà không có bất kỳ trở ngại hay che chướng nào. Một sự tái sinh làm người quý báu với những tự do và đặc ân của nó thì cần thiết để thực hành phowa. Một hành giả phowa phải tỉnh giác về sự quý báu của việc tái sinh làm người này và nỗ lực duy trì nó bao lâu ông còn có thể được mang thân người.

Các dấu hiệu của cái chết có bốn loại : hai dấu hiệu đầu tiên phải thực hiện với thứ tự thời gian, là các dấu hiệu chỉ ra rằng cái chết không lập tức và các dấu hiệu cho thấy là cái chết thì lập tức. Các dấu hiệu này được trình bày trong bản văn gọi là Tsenma Rangdrol, Sự Tự-Giải Thoát của các Đặc Tính. Nó ích lợi để các bạn tự làm quen thuộc với các dấu hiệu này bởi nếu chúng được nhận ra thì các bạn có cơ hội để tăng tiến sự thực hành của các bạn.

Về điểm này, tôi muốn nói rõ rằng phowa không bao giờ được dùng để thâu ngắn đời người. Các dấu hiệu của việc tới gần của cái chết thì quan trọng và ích lợi trong việc trợ giúp hành giả nhanh chóng thành tựu sự thực hành. Bất kỳ cố gắng nào để đẩy nhanh tiến trình hấp hối đều cực kỳ tiêu cực và tương tự như việc tự tử, là một trong những hành động thuộc về nghiệp xấu nặng nề nhất mà một người có thể mắc phạm.

Có nhiều lý do cho điều này. Lý do hiển nhiên nhất là không có gì quý báu hay hi hữu hơn sự tái sinh làm người này và vì thế nó cần được duy trì càng lâu càng tốt. Đức Phật đã dạy rằng nghiệp tiêu cực do bởi lấy đi mạng sống của một chúng sinh phải được hoàn trả năm trăm đời trong các cõi địa ngục. Trong thân thể các bạn có tám mươi tư ngàn loại ký sinh vật sinh sống, nhờ vậy mà không bị bệnh tật vật lý hay sự mất quân bình. Khi các bạn đau ốm, các ký sinh vật cũng kinh nghiệm sự bệnh tật. Vì thế, nếu các bạn tự sát, các bạn đang đồng thời tiêu diệt nghiệp bằng cách tái sinh trong các cõi địa ngục năm trăm đời đối với mỗi ký sinh vật. Các bạn đừng bao giờ nên nghĩ ngợi tới việc lấy đi mạng sống của chính mình.

Từ một quan điểm Kim Cương thừa, việc lấy đi mạng sống của chính các bạn hoàn toàn là sự hủy diệt các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ cư trú trong thân Kim cương. Đây là tư tưởng thậm chí còn tệ hơn các trọng tội. Năm trọng tội là giết cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, gây nên một sự mất hòa hợp trong tăng đoàn hay cố ý làm đổ máu một đấng Thiện Thệ. Các bạn cần cực kỳ thận trọng về bất kỳ khuynh hướng nào dẫn đến một cái chết non qua hành động này. Ngay cả trước khi ta cân nhắc trong việc thực hiện pháp phowa thực sự là sự chuyển di vào lúc chết, những buổi lễ nào đó cần được thực hiện để đánh lừa cái chết. Nếu đã có các dấu hiệu cho thấy cái chết của ta là chắc chắn thì có các buổi lễ có thể được cử hành để lừa dối hay trì hỗn cái chết, và sau khi chúng đã được cử hành ba lần, sau đó và chỉ sau đó mới là lúc thích hợp để tiến hành pháp phowa thực sự.

Những buỗi lễ đó đưa chúng ta tới giây phút thực sự mà các bạn sẽ thực hiện sự chuyển di tâm thức, khi hoàn toàn không thể đảo ngược lại được giây phút chết. Như tôi đã đề cập tới trước đây, có hai giai đoạn đối với sự thực hành phowa : sự tu tập khi ta còn sống trong sự chuẩn bị cho cái chết của ta và sự chuyển di tâm thức thực sự vào lúc chết. Trong cả hai trường hợp, ba nhận thức phải được củng cố. Ba nhận thức này là nhận thức kinh mạch trung ương như con đườngtâm thức của các bạn như kẻ du hành trên con đường và đích đến là Dewa-chen, Cõi Cực Lạc. Một khi các bạn đã củng cố ba nhận thức này, tâm thức được tu tập để đi lên con đường kinh mạch trung ương hướng thẳng tới mục đích là trái tim Đức Phật A Di Đà, đấng an trú trong cõi Dewachen.

Trước khi bắt đầu giai đoạn đầu tiên của sự thực hành, hãy suy niệm bốn tư tưởng chuyển hóa tâm và hãy khơi dậy Bồ đề tâm. Sau đó các bạn bắt đầu thực hành bằng cách ngồi trong tư thế hoa sen viên mãn (kiết già), xương sống thật thẳng, với đôi bàn tay trong bộ ấn như sau : các lòng bàn tay đặt nhẹ trên hai đầu gối với các ngón tay duỗi và hướng xuống trong cử chỉ chạm đất. Hãy quán tưởng một chữ HUNG xanh dương thật trong sáng và chói ngời trong trái tim các bạn. Từ chữ HUNG chính trong trung tâm tim của các bạn một chữ HUNG khác chiếu sáng và đi xuốngphong tỏa lỗ dưới (hậu môn), đóng cánh cửa tái sinh trong các cõi địa ngụcMột lần nữa, từ chữ HUNG trong trung tâm tim các bạn, một chữ HUNG thứ hai chiếu tỏa rađi xuống lỗ của lối vào bí mật và đóng cánh cửa tái sinh trong cõi súc sinh. Chữ HUNG khác tỏa chiếu từ chữ HUNG trong trung tâm tim các bạn và phong tỏa miệng. Hai chữ HUNG nữa chiếu ra phong tỏa hai lỗ tai. Hai chữ HUNG nữa chiếu ra phong tỏa ra hai lỗ mũi. Rồi tưởng tượng rằng các lỗ còn lại được phong tỏa bởi chữ HUNG khiến cho tâm thức không thể thoát ra khỏi thân thể từ bất kỳ nơi nào khác hơn là lỗ mở ở đỉnh đầu.

Ở lỗ mở trên đỉnh đầu, hãy quán tưởng một chữ HAM trắng lộn ngược. Hãy bắt đầu bằng cách quán tưởng một cách rõ ràng kinh mạch trung ương chạy xuyên qua giữa thân các bạn và nó có hình dạng của một ruột cừu khô được thổi phồng lên, trong suốt nhưng rõ ràng. Kinh mạch trung ương chạy suốt từ tận lỗ mở ở đỉnh đầu các bạn xuống tới chỗ dưới rốn bằng bề rộng bốn ngón tay. Nó có màu trắng sáng, chói ngời và chạy thẳng lên. Trong trung tâm của kinh mạch năng lực trung ương là bản tánh của giác tánh của ta. Nó có hình dạng của một bindu ánh sáng, màu trắng, chói ngời, trong sáng, nổi và rung động như thể sẵn sàng vút lên. Các bạn cần quán tưởng bindu năng lực ánh sáng, là giác tánh của các bạn, trong trung tâm kinh mạch trung ương để nó có thể vọt lên thật dễ dàng và ra khỏi đỉnh đầu các bạn. Rất cần quán tưởng một chỗ mở rộng của kinh mạch trung ương ở lỗ mở trên đỉnh đầu không có sự ngăn che nào.

Sẽ có nhiều dấu hiệu là cái chết sắp xảy ra và một vài trong số các dấu hiệu này sẽ xảy ra trong các giấc mộngThái độ tinh thần của ta sẽ thay đổi khi sức khỏe thể chất thay đổi. Đây là một vấn đề rộng lớn mà tôi không có thì giờ để đi vào. Có nhiều dấu hiệu để tìm kiếm sự xác định là thật ra cái chết có sắp xảy ra không. Tuy nhiên, cho dù các dấu hiệu xuất hiện thì các bạn cũng chỉ có thể chết sau nhiều năm. Một số người chết trẻ, một số chết già. Một số chết vì các loại vũ khí và một số bởi chiến tranh. Một số chết vì bom đạn.

Cách thức chết của chúng ta thì không chắc chắn nhưng sự kiện chúng ta sẽ chết thì tuyệt đối chắc chắn. Bởi sự không chắc chắn này, các bạn cần sẵn sàng để thực hiện giai đoạn thứ hai của sự thực hành phowa vào bất kỳ giây phút nào có được. Đối với các hành giả Đại Viên Mãn, vua của mọi kỹ thuật chuyển di sẽ được sử dụng, và đó là hợp nhất giác tánh nội tại của ta với tâm của đạo sưBản tánh của tâm là rigpa, giác tánh trống không nội tại, và nhờ năng lực của thực hành thiền định mà ta có thể thể hiện giác tánh nội tại vào lúc chết. Thật quen thuộc với việc hợp nhất giác tánh nội tại của ta với tâm của đạo sư là điều rất quan trọng. Việc duy trì trạng thái quân bình này vào lúc chết được gọi là sự chuyển di tâm thức tối thượng bằng sự thể nhập cái thấy Pháp Thân.

Kỹ thuật bậc trung là sự hợp nhất các giai đoạn phát triển và thành tựu được gọi là “sự chuyển di tâm thức Báo Thân”. Phowa Hóa Thân được thành tựu qua ba nhận thức, nó cho phép tâm hành giả chuyển di tới cõi cực lạc Hóa Thân.

Vào lúc chết, sau khi bốn yếu tố (tứ đại) đã phân tán lẫn vào nhau, ba giai đoạn của sự tan rã xảy ra theo thứ tự liên tiếp. Sự xuất hiện đầu tiên là một tia sáng trắng. Sự xuất hiện thứ hai là một tia sáng đỏ. Sự xuất hiện thứ ba là một sự thoáng ngất, một kinh nghiệm của sự rơi vào vô thức và sau đó tịnh quang, ánh sáng căn bản, tự trình hiện. Trừ các Bồ tát với sự chứng ngộ cao nhất, các giai đoạn tan rã này xảy ra cho tất cả mọi người vào lúc chết. Điều thật quan trọng là bản thân các bạn phải quen thuộc với chúng. Những giai đoạn này rất mãnh liệt bởi vì sự tan rã có tính chất sinh học ảnh hưởng tới tâm thức. Cách thức duy nhất để vượt qua sự khó khăn của giai đoạn tan rã là bằng đại định của cái thấy kim cương, một đại định mà chỉ các Bồ tát với chứng ngộ cao tột mới có thể thành tựu. Có nhiều giáo lý về các giai đoạn tan rã xảy ra vào lúc chết. Ngài Patrul Rinpoche đã ban cho một số giáo lý liên quan tới các giai đoạn tan rã này và chúng rất ích lợi cho những người sơ học bởi sự tiếp cận thì thẳng tắt.

Khi các giai đoạn tan rã bắt đầu, thị lực của ta bị mất đi như thể nhãn thức ngưng hiện hữuNhĩ thức ngưng hiện hữuThân thức ngưng hiện hữu. Sáu tri giác của giác quan bị suy kiệt khi tiến trình tan rã xảy ra. Vào một lúc nào đó trong giai đoạn tan rã này, ta không còn kinh nghiệm các phản ứng như sự hạnh phúc hay đau khổ nữa. Những cảm xúc đó bị tẩy trừ khỏi tâm thức. Rồi tới một lúc trong tiến trình tan rã này khi người hấp hối không còn nhận biết họ là ai hay những ai đang ở đó với họ. Vào lúc đó, năng lực của nhãn quan tan rã vào nhãn thức. Tất cả các giác quan khác cũng mất đi năng lực của chúng bằng cách tan rã vào bản tánh căn bản của ta, là Phật tánh, chính nó kinh qua ba giai đoạn đã được đề cập ở trên. Một cách đồng thời, các đại tan rã. Thịt tan vào địa đại, vào lúc đó người hấp hối cảm thấy một cảm giác nặng nề và không thể chuyển động được nữa. Máu tan vào thủy đại và các chất lỏng trong thân thể chảy ra qua các khiếu mà không thể kiểm soát được. Khi hơi ấm tan vào hỏa đại thân thể trở nên giá lạnh. Khi hỏa đại tan vào gió (phong), sự tỉnh giác trở nên rất lờ mờ và thân thể lạnh giá hơn nữa. Khi năm đại trong thân thể tan trở về yếu tố căn bản, các năng lực giác quan tan rã một cách tương ứng.

Như thế, tôi đang thực sự nói về điều gì ở đây? Tôi đang nói về tiến trình mà mỗi một và tất cả mọi người trong chúng ta sẽ kinh qua, tuy nhiên ngay cả bây giờ khi các bạn nghe những lời này, các bạn có thể nghĩ rằng tôi đang nói về người nào khác đang hấp hối, nhưng đây chính là điều mà tất cả chúng ta phải trải qua.

Vào lúc chết, nghiệp tiêu cực của con người trội vượt hẳn lên và gây nên sự đau khổ ghê gớm. Đây là nỗi đau khổ mãnh liệt nhất mà các bạn sẽ luôn luôn kinh nghiệm. Người hấp hối có một vài năng lực để hiểu biết về sự tái sinh kế tiếp của họ và để phản ứng lại việc đó trong những giây phút cuối cùng này. Tâm thức mê lầm có thể biểu lộ theo một cách mà những lời cuối cùng người đang hấp hối thốt ra thì hoàn toàn tiêu cực và khó chịu. Nếu họ sắp đi xuống cảnh giới địa ngục thì họ có thể biểu lộ những khuynh hướng của cảnh giới địa ngục trong thái độ tinh thần và sự biểu lộ qua thân thể ngay trước khi chết. Nếu họ sắp đi tới cảnh giới ngạ quỷ hay cảnh giới súc sanh, họ có thể biểu lộ các khuynh hướng đó. Sẽ có các dấu hiệu và các biểu lộ. Người hấp hối có thể thực sự thấy được nơi tái sanh trước khi các dấu hiệu và biểu lộ này xảy ra và điều này sẽ trở nên rõ ràng hiển hiện. Ngài Milarepa nói : “Một người xấu thấy nơi tái sanh tương lai của mình và vào lúc đó vị thầy trở thành sự tương thuộc duyên sanh của chân lý không sai chạy về nhân và quả.”

Những người sắp đi vào cảnh giới địa ngục sẽ mọc lên một cách tượng trưng những chiếc sừng và răng nanh, và nhìn thấy Yama, Thần Chết đang đến dẫn tay họ tới cõi địa ngục, nơi đó họ sẽ bị thiêu đốt trong các loại địa ngục. Thậm chí họ sẽ có kinh nghiệm này trước khi tới đó. Đây không phải là câu chuyện nào đó mà tôi đang bịa đặt. Nó xảy ra như thế nhưng các bạn vẫn nghĩ rằng nó sắp xảy ra cho người nào khác. Nỗi đau khổ của cái chết thì không thể nghĩ lường.

Năm ngoái khi tôi ở Delhi, một hôm chúng tôi đã viếng thăm một vườn bách thú, ở đó có một cái chuồng nhốt ba con rắn khổng lồ. Vài con chim nhỏ được thả vào chuồng cùng với một ít hạt để chúng đủ sống cho tới khi các con rắn ăn thịt chúng. Những con rắn chắc chắn sẽ ngấu nghiến những con chim nhỏ bé đó vì chúng là con mồi của lũ rắn. Tuy nhiên, những con chim không có ý niệm gì về số phận của chúng. Và như thế, mặc dù mọi người nhìn vào chuồng có thể thấy rằng ngày mai các con chim sẽ chết, nhưng chính chúng thì hoàn toàn không biết gì về tình trạng nguy hiểm của chúng. Việc này gây ấn tượng cho tôi như một ví dụ cổ điển về thân phận của chúng sinh. Tất cả chúng ta đều thích dấn mình vào những vấn đề thế giancuộc đời chúng ta bị tiêu mòn bởi công việc và những hoạt động khác, và chúng ta không thấy được bản chất của sinh tử trong khi nó thật hiển nhiên. Không thấy được điều đó, người ta tiếp tục theo đuổi các hoạt động thế tục mà không có bất kỳ sự tỉnh giác nào về số phận của họ : cái chết đó đang tới gần vào bất cứ giây phút nào như một sự thật đối với những con chim trong cái chuồng đó. Thật buồn khôn tả khi nhìn thấy tình trạng nguy cấp và sự vô minh của chúng sinh. Quá rõ ràng là chúng sinh cần Pháp để họ có thể né tránh được Yama, Thần Chết, khi ông ta đến dắt tay họ đi. Có một cơ hội để chuẩn bị nếu như các bạn có thể gặp được Pháp và thực hành nó. Nếu các bạn không chuẩn bị, các bạn sẽ giống như một con cừu bơ vơ lạc lối, gặm cỏ thơm ngon trên những sườn dốc cao, xa bầy và những hình thức khác của đời sống, và khi nó đang vui hưởng bữa tiệc thì bất thần không biết từ đâu một con chó sói nhảy xổ ra và ăn nó ngấu nghiến. Đừng quên rằng Thần Chết đang đến gần. Vào lúc đó các bạn sẽ bị tràn ngập bởi bất kỳ nguyên nhân của cái chết nào. Nguyên nhân của cái chết sẽ là kinh nghiệm mãnh liệt nhất về nỗi đau khổ mà các bạn chưa từng có trong đời các bạn. Các bạn sẽ bị tràn ngập bởi các giai đoạn tan rã. Điều thiết yếu là phải chuẩn bị và làm việc như thế trong khi các bạn vẫn còn có thể.

Có hai giai đoạn đối với tiến trình tan rã : sự tan rã bên ngoài và sự tan rã bên trong. Sự tan rã bên ngoài là sự tan rã liên tục của năm đại, đó là địa, thủy, hỏa, phong và không đại. Điều này đã được giảng rõ. Vào lúc này, người hấp hối không thể phân biệt hay nhận ra các tri giác của giác quan. Điều này chỉ ra rằng các xuất hiện đang tan lẫn vào giai đoạn xuất hiện của ánh sáng đỏ. Hơi thở bên ngoài đã ngưng nhưng hơi thở bên trong vẫn còn hiện diện trong thân. Cái chết hãy còn chưa xảy ra. Như thể là có một ngọn nến hay đèn bơ nhỏ còn cháy trong trung tâm tim vì hơi thở bên trong đang hiện diện, và tâm thức vẫn còn ở trong thân, mặc dù người ấy không còn thở nữa. Tuy thế cái chết chưa xảy ra vì hơi thở bên trong vẫn còn.

Vào lúc này, sự tan rã bên trong xảy ra. Hạt giống (chủng tửnguyên thủy mà chúng ta nhận từ cha chúng ta lúc thụ thai, một bindu trắng gồm tinh chất trong đỉnh đầu, đã tồn tại ở đó từ lúc thụ thai. Khi các đại tan rã và hơi thở bên ngoài ngưng lại, bindu trắng này nhỏ xuống qua kinh mạch chính giống như một ngôi sao băng đi vào trái tim. Người hấp hối kinh nghiệm điều này như một tia ánh sáng trắng, giống như mặt trăng xuất hiện trong một bầu trời trong trẻo và làm tràn đầy nó khiến mọi sự trở nên trắng ngần. Khi bindu hay giọt tinh chất đi vào tim chúng ta, ba mươi ba vọng tưởng liên kết với sự sân hận tạm thời bị ngưng lại. Nếu người hấp hối đã thành tựu cấp bậc chứng ngộ nào đó lúc sống, thì vào lúc này người ấy sẽ chứng ngộ Hóa thân và đạt được giải thoát bằng cách đi vào một trạng thái tỉnh giác thuần tịnh không thể thối chuyển được, là nơi họ sẽ được giải thoát khỏi vòng sinh tử. Đối với người đó, mọi vọng tưởng sẽ vĩnh viễn chấm dứt hay chuyển hóa thành sự giác ngộTuy nhiên, một người bình thường kinh nghiệm một sự ngưng dứt tạm thời của những ý niệm được đặt nền trên sự sân hận vào giây phút giọt trắng đi xuống. Điều này được gọi là sự xuất hiện màu trắng tan hòa vào giai đoạn xuất hiện của gió.

Ngay khi giọt trắng đi tới trái tim, chủng tử nguyên thủy được nhận từ mẹ chúng ta vào lúc thụ thai đã tồn tại trong trung tâm rốn của ta suốt cuộc đời ta, nó cũng được gọi là chủng tử trứng hay chủng tử máu, đi lên kinh mạch trung ương và tan vào trái tim, hợp nhất với chủng tử trắng. Vào lúc này, có một tia sáng đỏ như thể mặt trời bất ngờ xuất hiện trong một bầu trời trong trẻo làm tràn đầy nó với một ánh sáng đỏ chói. Bốn mươi ý niệm kết hợp với sự tham dục bị ngưng lại. Nếu người hấp hối đã là một hành giả thành tựu trong cuộc đời, người ấy sẽ có khả năng đạt được giải thoát trong sự tỉnh giác Báo Thân của Không-Lạc và chứng ngộ trạng thái giải thoát bất thối chuyển. Đối với một người bình thườngkinh nghiệm về sự ngừng dứt của bốn mươi ý niệm được liên kết với tham dục này là tạm thời và chỉ xảy ra vào thời điểm chủng tử đỏ đi lên. Điều này được gọi là giai đoạn xuất hiện của màu đỏ tan vào giai đoạn cận-đạt đến bóng tối.

Khi hai chủng tử này hợp nhất ở trung tâm tim, chúng được kết dính lại với nhau và lập tức kinh nghiệm cận tử bắt đầu. Đây là một kinh nghiệm về bóng tối hoàn toàn, không có ý thức, vào lúc này bảy ý niệm được đặt nền trên sự mê lầm và vô minh bị dừng lại. Đây cũng là lúc mà một hành giả hảo hạng chứng ngộ Pháp Thânđặc biệt là khi các thực hành Dzogchen đã được thành tựu. Nếu người hấp hối là một hành giả của giai đoạn phát triển thì người ấy, nhờ thói quen của sự thực hành deity yoga trong đời, sẽ có thể tập trung trên chủng tự hay các chữ mantra trong tim của deity (bổn tôn). Việc đi vào sự tỉnh giác thiền định của bổn tôn theo cách đó sẽ đưa đến giải thoát vào giây phút này. Nếu người hấp hối đã thực hành tsalung, thì nhờ thói quen của sự thực hành Không-Lạc trong một trạng thái của bốn hỉ lạc, họ sẽ đi vào trạng thái tỉnh giác trí huệ. Một hành giả bình thường hơn có thể nhớ lại sáu hồi niệm vào lúc này. Chúng là hồi niệm về bổn tôn, giới luậttăng đoànđức hạnh và v.v… Dù có thể ở trong bất kỳ tình huống nào, các hành giả phải nhớ lại và sử dụng thói quen mạnh mẽ nhất của họ vào giây phút quyết định này. Nếu người hấp hối là một tăng hay ni, người ấy có thể nhớ lại các cam kết đã được lập ra để duy trì các nguyện hay giới luật nào đó. Nếu người hấp hối đã thực hành bố thí, họ có thể nhớ lại các hành động bố thí và hành vi đạo đức đó mà họ đã quen thuộc. Nếu người ấy đã từng là một hành giả trì tụng thần chú, người ấy có thể nhớ lại các thói quen của tâm. Nếu người ấy đã từng là một hành giả Dzogchen, người ấy có thể nhớ lại cái thấy (kiến) và đạt được giải thoát trong Pháp Thân bằng cách hợp nhất giác tánh bất nhị với Đức Phật Vajradhara hay Samantabhadra (Phổ Hiền). Sự hồi niệm này thì tối cao. Nếu người ấy đã là một hành giả mahayoga hay anu yoga, người ấy có thể thấu suốt kinh nghiệm của Đức Vajradhara và đạt giải thoát. Nếu người ấy đã trì tụng OM MANI PADME HUNG, thì riêng điều này đã có thể là một hồi niệm rất mãnh liệt của kinh nghiệm cận tử.

Trái lại, nếu người hấp hối không có các thói quen tích cực hay đức hạnh, thì sau khi các tia sáng trắng và đỏ xảy ra và hai chủng tử hợp nhất, trong kinh nghiệm cận tử về bóng tối tâm thức sẽ mê lạc vào a lại da, là thức nền tảng rộng khắp. Trái lại, một hành giả vào giây phút kinh nghiệm cận tử sẽ tri giác sự ló rạng của ánh sáng căn bảnkinh nghiệm tịnh quang, tinh khiết như một bầu trời không mây, rực rỡ và chói ngời. Kinh nghiệm đó giải thoát khỏi bất kỳ che chướng hay dấu vết che chướng nào. Nếu người ấy đã được đưa vào tịnh quang trong đời mình và quen thuộc với sự thiền định, thì người ấy có thể đã từng thể nhập tịnh quang được minh họa khiến khi tịnh quang mẹ xuất hiện, thì sẽ giống như một đứa trẻ nhận ra được mẹ nó và lập tức nối kết bằng cách nhảy vào lòng bà. Tịnh quang được minh họa, nhờ năng lực của sự nhận thứcchuyển hóa thành ánh sáng mẹ hay ánh sáng căn bản. Không có gì quan trọng hơn việc nhận ra ánh sáng mẹ vào lúc này.

Nhưng, điều này có thể hoàn toàn chỉ là lối nói hoa mĩ, chỉ là bàn luận suông. Nếu các bạn không thực hành, nghiệp của các bạn sẽ quá tiêu cực khiến không thể hiểu thấu điều này và các bạn sẽ hoàn toàn tiếp tục lang thang trong sinh tử. Không có thực hành các bạn hoàn toàn rất tầm thường và sẽ chỉ kinh nghiệm ánh sáng trắng, ánh sáng đỏ và sự tối sầm. Đây là một kinh nghiệm khó vượt qua đến nỗi, nói đúng ra, chỉ có các hành giả cao cấp nhất mới có thể thực sự chiến thắng giây phút này trong một ý nghĩa tuyệt đối và thành tựu thân cầu vồng. Trong tất cả những trường hợp cá biệt khác sẽ chỉ là những dấu vết vi tế của những mê lầm thuộc về nghiệp. Mọi chúng sinh trong ba cõi đều phải chết trong cách này, không một ai được miễn trừ tiến trình này. Ngay cả những lama giàu có nhất cũng phải ra đi theo lối đó. Chẳng có lợi lạc gì đối với các hoạt động mà bản thân các bạn dính líu vào để tích lũy của cải. Bằng cách đi vào con đường với cam kết chân thực và samaya (hứa nguyện) trong sạch, người ta hoặc hướng trực tiếp tới mục đích giải thoát hoặc lạc đường và trộn lẫn Pháp thanh tịnh với cái thấy bất tịnh cùng các hoạt động bất tịnh, do đó đổi hướng và tiến về sự tái sinh trong các cõi thấp. Đây là lý do vì sao rất cần sử dụng tốt đẹp sự tái sinh làm người quý báu này.

Các bạn đã nhận được các giáo huấn trực chỉ cốt tủy bắt nguồn từ Đức Padmasambhava nhưng ngoài việc ấy ra tình huống của các bạn thực sự là rất vô íchTuy nhiên, nếu các bạn có thể hoàn toàn nhận thức được sự quý báu của những giáo lý dẫn tới giải thoát này, thì lần lượt các bạn có thể thực sự đạt được giải thoát. Các bạn có thể nhận ra điều đó không? Các bạn có thể thiền định về nó? Đây có phải là điều mà các bạn thực sự nghĩ rằng các bạn có thể thực hiện? Xin hãy nhận ra cơ hội mà các bạn đang có, sự quý báu của các giáo lý này và xin hãy thực hành. Đừng chỉ là một kẻ khùng điên và tiêu phí cơ hội này. Các giáo huấn trực chỉ không bao giờ được xa lìaĐức Phật A Di Đà không ở quá xa. Đức Phật nguyên thủy Phổ Hiền không ở quá xa. Nếu các bạn biết phải thiền định thế nào các bạn sẽ khám phá sự bất nhị và các bạn sẽ khám phá ra rằng không có sự phân cách giữa các bạn và chư Phật.

Bản tánh của tâm thì trống không, thoát khỏi mọi giới hạn. Nó không màu sắc, hình dạng hay các yếu tố phân biệt đối với bất kỳ loại nào và tuy thế nó lang thang trong sinh tửkinh nghiệm nỗi khổ và tích tập nghiệpThực ra, tâm có năng lực để đạt được tự do và kinh nghiệm được đại lạc và hạnh phúc chân thật. Tất cả chín thừa của Phật Pháp hiện hữu là để cho bản tánh của tâm có thể được thấu suốt phù hợp theo các nhu cầu và khả năng của hành giả. Mỗi phái tìm kiếm để khám phá trạng thái vô ngã và định danh sự khám phá đó một cách thích hợp. Một vài phái gọi nó là bản tánh của tâm. Các Thanh Văn gọi nó là sự không có cá tính đối với một con người. Phái Yogachara, “Duy Thức” gọi nó là tâm không có bản ngã (vô ngã). Phái Trung Quán gọi nó là trung đạo. Các phái khác gọi nó là trí huệ siêu việttinh túy của các đấng Thiện Thệ, mahamudra (Đại Ấn), một bindu tinh túy, nền tảng rộng khắp, giác tánh bình thường hay tamal gyi shepa. Khi ta bắt gặp nó, bất chấp sự định danh của nó, không chút hồi niệm các sự kiện trong quá khứ, không cần đến sự tiên liệu các sự kiện trong tương lai, trong giây phút hiện đây, để mặc như nó là, tâm bình thường hay giác tánh (sự tỉnh giác) này không phải là cái gì trống rỗng hay hư vô mà đúng hơn nó hoàn toàn rõ ràng. Nó không là cái gì đặc biệtphi thường vì sự biểu hiện của giác tánh thì vô hạn. Nó không tản mác bởi nó là nhất-vị. Tinh túy là Pháp ThânBản tánh là Báo Thân. Phẩm tính là Hóa Thân và sự không thể phân chia của ba điều đó là svabhavakaya (Thân Tự Tánh). Sự truyền dạy này được trao cho Lhacham Pema Sel trong đời Đức Padmasambhava. Bà đã giữ gìn nó và về sau đã hóa thân là Longchenpa là bậc đã ban các giáo lý Dzogchen kỳ diệu nhất. Đây là các giáo huấn tinh túy đến trực tiếp từ Đức Padmasambhava và chúng chỉ dạy cách thức đạt được giải thoát. Điều này được thành tựu nhờ thấu suốt cái thấy về giác tánh nội tại. Sau khi nhận được các truyền dạy và giáo huấn về bản tánh này, điều quan trọng là đưa chúng vào đời sống của các bạn bằng cách thực hành chúng. Một khi các bạn đã được dạy cách thiền định, quả là một phí phạm lớn lao nếu các bạn không thực hành.

Các giáo lý này là tâm yếu của Đại Thành tựu giả vĩ đại Karma Lingpa. Bởi chúng ta không biết được chúng ta sẽ còn sống vào ngày mai không nên bây giờ là lúc để chuẩn bị cho cái chết và cách tốt nhất để làm điều đó là thể nhập cái thấy Dzogchen. Cái thấy đó sẽ siêu vượt các giai đoạn tan rã vào lúc chết : tia sáng trắng, tia sáng đỏ, và sự thoáng ngất tối sầm, được theo sau bởi sự ló rạng của tịnh quang. Nếu chúng ta quen thuộc với giác tánh tịnh quang thì khi đó ta sẽ đạt được giải thoát trong ánh sáng căn bảnNếu không, Bardo Pháp Tánh sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ có các cơ hội khác để nhận ra các cõi Phật thuần tịnh như sự phô diễn của các bổn tôn xuất hiện trước tiên trong sự biểu lộ an bình và sau đó trong biểu lộ phẫn nộ. Nếu các cõi Phật không được nhận ra và nếu sự giải thoát không xảy ra thì Bardo Trở thành sẽ rõ ràng và ta sẽ bị lôi vào các trạng thái tái sinh trong sinh tử trong tương lai. Cho tới khi tri giác mê lầm được giải thoát, các bạn sẽ tiếp tục khoác lấy các hình tướng và trải nghiệm thân xác các bạn đang bị thiêu đốt trong địa ngục hay bất kỳ kinh nghiệm nào của hiện thân vật lý, và cứ lặp đi lặp lại mãi. Nó sẽ không ngừng dứt cho tới khi sự mê lầm trong tâm bị cạn kiệt. Sự mê lầm trong tâm bị cạn kiệt nhờ thiền định. Nếu các bạn không thực hành, thì các bạn hy vọng điều gì? Làm thế nào tôi có thể giúp đỡ các bạn? Điều khiến tôi có phần e ngại là đã quá rộng rãi với những khám phá quý báu này, nhưng điều đó là xứng đáng nếu các bạn đưa những giáo lý này vào tâm khảm và thực hành chúng. Hãy thận trọng suy nghĩ điều này. Nếu các bạn không thiền định, thế thì không tốt. Nó làm suy đồi mọi sự. Mọi sự trở nên hư hỏng. Xin đừng lãng phí cơ hội này. Hãy nỗ lực thực hành.

H.H. Orgyen Kusum Lingpa
Nguồn: Trích từ tác phẩm Một Kho Tàng Các Giáo Huấn Siêu Việt
Anh dịch: Sangye Khandro
Việt dịch: Liên Hoa
Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2002