Chủng tự Ah

Tiểu sử Bậc trì giữ truyền thống Neydo – Đức Karma Chagme Rinpoche

 Tôn tượng A Di Đà tại Tụ viện truyền thống Neydo – Nepal 

images (1)

Đức Karma Chagme Rinpoche đời thứ 1

Giữa bầu trời bao la ngập tràn lòng bi mẫn của Đức Phật A Di Đà, Mặt trời mandala hiển lộ, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện đầy uy lực, Ánh sáng trí tuệ của Đức Liên Hoa Sinh chiếu rọi, xua tan hoàn toàn sự vô minh của tất cả hữu tình. Con xin đảnh lễ dưới chân Ngài, Đức Karma Chagme.

Bổn Sư, Đấng chiến thắng, Vị Phật toàn hảo đã nói: “Trong tương lai, Giáo Pháp của ta sẽ ngày càng lan rộng về phía Bắc”. Theo lời tiên tri này, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã chuyển hóa Xứ Tuyết Tây Tạng và vô lượng chư Phật và Bồ Tát như sao trên trời liên tục tái sinh tại vùng đất này vì lợi lạc của Giáo Pháp và của tất cả chúng sinh.

Trong số các vị Bồ Tát này, có một vị đã được chính Đức Phật toàn hảo và Đạo Sư vĩ đại Liên Hoa Sinh xứ Orgyen tiên tri rằng Ngài sẽ tái sinh nhiều lần tại miền đất này. Vị dẫn dắt trời, người thoát vòng luân hồi sinh tử và Niết bàn, người nắm giữ toàn bộ các giáo lý cổ xưa, Nhiếp chính vương vĩ đại của Sidda Orgyen Pema, với danh tiếng phủ khắp địa cầu chính là Đức Karma Chagme Rinpoche. Dưới đây là lời giải thích ngắn gọn về việc làm thế nào Ngài được nhận dạng theo lời tiên tri của Đức Phật và làm thế nào để những câu chuyện về công hạnh và sự giác ngộ về các Hóa thân của Ngài được mở ra.

Theo đó, sự tiên tri này được nhắc đến nhiều lần trong Kinh điển và Mật điển về sự xuất hiện của 13 Hóa thân, sự thị hiện của Ba thân (kaya): Pháp thân, Báo thân và Hóa thân (Dharmakaya, Sambhogakaya, Nirmanakaya) và chủng tự “Ah” sẽ hiện lên một cách tự nhiên trên đỉnh đầu Ngài. Một học giả thành tựu vĩ đại, một vị Bồ Tát, là sự thị hiện vinh quang chói ngời của Giáo Pháp đối với tất cả chúng sinh đang chìm ngập bởi khổ đau. Ngài sinh tại Char-Ngom thuộc Salmo Gang hạ, là một vùng thuộc tỉnh Kham vào năm 1608 với rất nhiều dấu hiệu tuyệt vời. Mẹ ngài là Cho Kyong Kyid và cha Ngài là Yogin Anu Pema Wangdak, thuộc dòng dõi Hóa thân từ Đức Văn Thù Sư Lợi (Manjushri), Vua Pháp Trisong Deutsen. Ngay từ khi còn nhỏ Ngài đã sở hữu những phẩm tính phi thường như lòng yêu thương, sự bi mẫn và tâm vị tha.

Ngài đã nghiên cứu toàn bộ những giáo huấn liên quan đến những giáo lý nội và ngoại của dòng truyền thừa Rigdzin do cha Ngài trì giữ. Khi Ngài thọ nhận giáo lý về Kinh điển, Mật điển, Luận hay khoa học, Ngài không gặp bất cứ khó khăn nào, chỉ cần nhìn thoáng qua là Ngài có thể nhớ toàn bộ nội dung và ý nghĩa một cách hoàn hảo. Như một viên ngọc quý giữa những vì sao, Ngài tỏa sáng nhất trong số các học giả và thành tựu giả. Thông qua bậc chứng ngộ vĩ đại Garwang Choekyi Wangchuk, là vị Thầy chính của Ngài, Ngài đã thọ nhận lễ tôn phong, giáo huấn nhĩ truyền về Đại thủ Ấn và sáu pháp Du già theo cách mà nước từ một chiếc bình được đổ hết sang chiếc bình khác. Cũng như thế, Ngài đã thọ nhận rất nhiều giáo huấn, quán đảnh, và trao truyền của các cổ phái và tân phái  từ các bậc Đạo sư tâm linh khác.

Đầu tiên, Ngài ở Palri Tse một thời gian dài cho kỳ nhập thất nghiêm ngặt, thiền định về Đức Đại Bi (Quan Thế Âm Bồ Tát). Tại đó, Ngài đã có linh kiến về nhiều vị Bổn tôn. Đặc biệt, Ngài đã có những linh kiến tiên tri về Đức Arya siêu phàm, Giáo chủ của cõi giới này trong thân tướng của con người, nhiếp chính vĩ đại của Đạo Sư Liên Hoa, Ngài Namchoe Mingyur Dorjee.

Ngay khi vừa mới sinh, Ngài đã xuất hiện trước khi Đức Chagme Rinpoche nhập thất. Chagme Rinpoche với sự xúc động mãnh liệt đã làm lễ tắm gội và trở thành Thầy của Ngài. Ngài đã lắng nghe toàn bộ giáo huấn khẩu truyền thâm sâu Dzokchen và trở thành vị kế thừa Pháp chính yếu của Namchoe, kho tàng giáo lý thâm sâu và tinh túy nhất của mọi dòng phái. Sau đó, Ngài đã hiện thực hóa sự tỉnh giác tột cùng của pháp thực hành hợp nhất Đại Thủ Ấn (mahamudra) và maha-ati, trở thành người nắm giữ giáo lý của Tryền thống Cựu Dịch. Là thị hiện của sự toàn hảo, Ngài đã làm chủ tất cả các phẩm tính của thân, khẩu, ý giác ngộ như nhìn thấu thế giới vô hình và có nhiều quyền năng. Rất nhiều đệ tử của Ngài đã đạt thành tựu- đó là những đệ tử vô cùng may mắn đã được thọ nhận các quán đảnh và giáo huấn trực tiếp từ Ngài, cũng như những người  sùng mộ Ngài nhờ đọc những trước tác của Ngài.

Nhiều thần linh và tinh linh xấu ác đã dâng mạng sống và nguyện phụng sự và làm theo chỉ dẫn của Ngài. Với quyền năng và khả năng kì diệu, Ngài chính là Đấng Thành Tựu vĩ đại không thể nghĩ bàn. Đặc biệt, phần lớn các học giả và thành tựu giả xem Chagme Rinpoche là bậc Thầy của họ. Thêm vào đó, Dòng truyền thừa Neydo, nổi danh khắp Xứ Tuyết được hồi sinh nhờ sự bi mẫn của bậc thành tựu vĩ đại này. Ngài có rất nhiều đệ tử nhưng tựu chung là Năm Trưởng Tử Tâm, chính là năm đệ tử tâm truyền của ngài. Hơn nữa, Ngài có vô số những Hóa thân vĩ đại không thể nghĩ bàn, chính là các vị hộ trì dòng truyền thừa, các vị học giả và  những bậc thực hành vĩ đại.

Ngài đồng thời nắm giữ những giáo pháp gốc của Dòng truyền thừa Neydo thuộc truyền thống Kagyu và dòng Palyul và Dzokchen thuộc truyền thống Nyingma. Những giáo pháp này trở thành dòng truyền thừa hợp nhất tràn ngập khắp tỉnh Kham và Amdo. Tràng hạt quý báu của giáo pháp này không hề bị thu nhỏ mà thay vào đó, lại càng lan rộng như trái tim bi mẫn của Đức Phật đã lan tỏa đến khắp mọi nơi trên Trái Đất cho đến ngày nay. Mặc dù với sự hiểu biết thông thường của chúng ta, thân xác của các Ngài đã hòa tan vào Pháp tánh nhưng thực sự các vị Phật và Bồ Tát vẫn luôn cứu độ chúng sinh dù gián tiếp hay trực tiếp vì lợi lạc của tất cả hữu tình cho đến khi không còn vòng luân hồi sinh tử.

Như Ngài Tịch Thiên đã từng nói:

Bao giờ không gian còn

Bao giờ chúng sinh con

Nguyện con còn ở lại

Xua tan nỗi thống khổ khỏi thế gian.

BVqVcYSCYAEOibR

Đức Karma Chagme Rinpoche đời thứ 7

Theo đó, trong phạm vi của một bậc chứng ngộ, mặc dù Ngài đã thực hiện viên mãn những hạnh nguyện của Đức Phật Phổ Hiền nhưng Ngài vẫn tiếp tục hoằng dương Phật Pháp  vì lợi lạc của tất cả chúng sinh thông qua những trước tác của Ngài- đặc biệt là qua những bộ Pháp mà Ngài đã có linh kiến và khám phá. Khi Ngài Chagme đang thiền định trong kì nhập thất nghiêm mật kéo dài mười hai năm, Orgyen Rinpoche đã cưỡi một con yêu quái đến gặp Ngài trong một linh kiến.

Ngay sau khi có linh kiến về di ảnh của Đức Orgyen Rinpoche, Chagme Rinpoche đã nhìn thấy bốn bài kệ kim cương. Dựa trên những bài  kệ này, Ngài đã soạn ra bộ giáo lý làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, đó là Giáo huấn về Lòng Đại Bi gồm 18 chương cùng với luận giảng. Sau khi bộ giáo lý hoàn thành, Đức Quán Thế Âm đã xuất hiện trước Ngài và tiên tri rằng “Giáo Pháp này sẽ giúp 18 tỉ chúng sinh vãng sanh Cõi Tịnh Độ”. Hơn nữa, theo Richoe “Ngọn núi Pháp” Tsam bộ giáo huấn được chuyển thành các tác phẩm về pháp tiên tri và thiên văn học gồm tổng cộng 77 pho sách do một mình Ngài viết. Bất cứ tác phẩm nào Ngài viế ra đều nhờ tha lực của các vị Bổn tôn và nhờ vậy mà các giáo lý thấm đẫm ân phước, gia trì của các Ngài để mang lại lợi lạc cho tất cả hữu tình chúng sinh.

Sau khi làm lợi lạc cho giáo Pháp và chúng sinh và để cho các đệ tử của mình trưởng thành hơn, Ngài đã hòa tan vào pháp tánh ở tuổi 65 tuổi. Sau lễ hỏa tang, rất nhiều xá lợi và xương mang hình tướng của các vị Hộ phật được tìm thấy trong đống tro tàn. Trong hộp sọ của Ngài,  người ta thấy một bức thư tự nhiên xuất hiện một cách rõ ràng. Những dấu hiệu phi thường này  nằm ngoài phạm vi trải nghiệm thông thường của con người và đã được tất cả mọi người chúng kiến (đầy kinh ngạc).

Đây là Mười ba bậc Hóa thân được tiên tri. Từ vị thứ 2 trở đi là thị hiện cho sự kế thừa không gián đoạn của chính các Hóa thân sau đây:

  1. Trinley Wangjung
  2. Trinley Tendzin
  3. Tendzin Trinley
  4. Sang Ngak Tendzin
  5. Tsultrim Namgyal

Những bậc Hóa thân vĩ đại này đã đem lại vô số lợi lạc cho giáo Pháp và hữu tình chúng sinh và cuối cùng đã hòa tan vào Pháp tánh.

Đặc biệt, khi mà Bảy Kho Tàng Tâm thâm diệu lần đầu được khai mở bởi Bậc Khám Phá Kho Tàng Tâm Linh vĩ đại Chokgyur Lingpa ở xứ Ogmin, nơi ở của các Karmapa, chính bản thân Ngài và Đức Gyalwang Karmapa Kachab Dorje vinh quang – đều có cùng linh kiến, tiên tri, ý định và được công nhận là Hóa thân thứ 5 của Đức Sang-ngak Tendzin, Đại Đạo sư Kim Cương về Mật điển. Chính bản thân Ngài, Bậc Khám Phá Kho Tàng Tâm đã tự ban cho mình một vài thứ trong kho tàng đó: Ngài đã lấy chiếc mũ tên là Pema Tong- drol. Bên trong chiếc mũ, Ngài tìm thấy nhiều phụ kiện và mời Đức Sang-ngak Tendzin đeo vào. Để giải thích cho việc này, Khai Mật Tạng vĩ đại (Bậc khai phá Kho Tàng Tâm Linh) và Đức Gyalwang Kachab Dorje vinh quang đã cùng phát nguyện trên chiếc mũ rằng: Bất cứ ai dù ở bất cứ nơi nào, dù là vĩ nhân hay quỷ dữ, khi tiếp xúc với chiếc mũ Pema Tong- Drol quý báu này sẽ nhận được giáo Pháp vi diệu không thể nghĩ bàn, mọi nghiệp chướng và những xúc cảm tiêu cực sẽ được tịnh hóa, và họ sẽ được tái sinh vào Cõi Tây Phương Tịnh Độ của Dewachen.

Nơi nương tựa hiện tại và tương lai và là cũng là nguồn hi vọng cho chúng sinh sống trong thời đại của 5 suy đồi này chính là vị Thầy tâm linh, người hướng dẫn siêu việt không thể nghĩ bàn, Hóa thân của Đức Chenresig, Hóa thân thứ 7 của học giả-thành tựu giả Karma Chagme-Đức Karma Tendzin Triley Kunchab Pal Zangbo siêu việt. Ngài sinh năm 1926 trong một gia đình quyền quý ở Lhatok, tỉnh Kham, thuộc dòng dõi bộ trưởng cho Vua Lhatok. Thân phụ của Ngài là Yeshe Rabje và thân mẫu của Ngài là Troru Sonam Dronma. Ngay khi Ngài chào đời, đã có rất nhiều điềm kỳ diệu, tuyệt vời và khó có thể tưởng tượng diễn ra trước sự chứng kiến của rất nhiều người như là: Người giám hộ Shang Jongma đã để lại dấu tay trên giường của mẹ Ngài như là một dấu hiệu cho thấy ông  giám hộ Ngài  suốt cả ngày đêm.

Đấng Chiến Thắng, Đức Karmapa thứ 16, Ngài Rikpay Dorje siêu phàm, khi đang ở Karma Gon, nơi ở đầu tiên của Dusum Kyenpa vinh quang, Ngài đã tiên đoán và nhận ra cậu bé phi thường này, mà người giám hộ hộ Shang Jongma đã đánh dấu cậu là Hóa thân vĩ đại của học giả thành tựu Karma Chagme. Theo lời tiên đoán của Ngài và những dấu hiệu diễn ra sau khi Ngài được sinh ra, Ngài đã ban cho cậu bé Pháp danh Karma Tendzin Trinley Kunchab Pal Zangbo. Sau đó, Ngài đã được tấn phong ở Tashi Choeling, tu viện chính của các Hóa thân của Đức Chagme Rinpoche. Đức Neydo Sangtrul đời thứ 5 được chỉ định là Thầy hướng dẫn cho Ngài, Ngài nghiên cứu về Kinh điển và Mật điển dưới sự chỉ dạy của Thầy mình. Thêm vào đó, Ngài cũng thọ nhận các trao truyền đọc và các quán đảnh từ những vị học giả tôn kính của tất cả các dòng phái. Đặc biệt, Ngài thọ nhận các trao truyền về toàn bộ giáo lý mang tên “Sự hợp nhất của Đại Thủ Ấn và Maha-ati” (“The Union of Mahamudra and Maha-ati”), các giáo huấn chính yếu được trì giữ bởi những Hóa thân Chagme thuộc dòng truyền thừa này theo cách thức nước từ chiếc bình này rót trọn vẹn sang bình kia. Ngài đã thực hành các giáo lý như một Hành giả du già ẩn dật. Ngài có rất nhiều kinh nghiệm siêu việt như sự tuôn chảy không ngừng của một dòng sông, chẳng hạn như có linh kiến về các vị Bổn tôn (yidam), và luôn nhận được những dấu hiệu, điềm lành.

Dưới đây là một vài câu chuyện về Rinpoche được cung cấp tình cờ: Vào một buổi sáng năm 1957, Ngài thức dậy lúc bình minh và đã nhìn thấy năm chàng trai với các túi đồ màu vàng khoác trên lưng đang tiến đến. Một trong số họ kéo một thứ gì đó ra khỏi cái túi và xin được cúng dường cho Rinpoche. Đó là một chiếc lá to mang dòng chữ rõ ràng như sau: Chúng tôi phải mời được năm vị Lama đến từ vùng hạ Amdo, và một trong số họ chính là Ngài, Đức Karma Chagme. Giờ là lúc để Ngài đi với chúng tôi tới Ấn Độ. Khó khăn, trở ngại do sự thay đổi về thời gian. Hãy gỡ bỏ những dính mắc của Ngài với quê hương và lên đường với chúng tôi.

Ngay sau khi Ngài đọc xong thì chiếc lá lập tức biến mất. Từ thời điểm đó, Ngài đã nhìn thấy rất nhiều dấu hiệu, điềm báo và những lời tiên tri nhưng Ngài vẫn cảm thấy chưa tin tưởng hoàn toàn. Vài năm sau đó kể từ khi sự việc đầu tiên xảy ra, Đức Liên Hoa Sinh đã thị hiện trong thân tướng Phẫn nộ và nói: “Thời hạn để con rời khỏi đây đã sắp hết. Nếu trong vòng một tuần con có thể rời khỏi đây, con sẽ có cơ hội để trốn thoát những sẽ phải đối mặt với vô vàn khó khăn”. Vào ngày tiếp theo, Ngài đã bí mật bỏ trốn cùng với vài thị giả và đi suốt ngày đêm để tới Shota Lhosum. Ngài đã ở lại đây trong khoảng 3 tháng.

Trong thời gian còn ở đó, Ngài đã bị những kẻ chống đối bắt và trói lại. Tại thời điểm đó, một âm thanh lớn ầm ầm vang lên và Ngài đã bay lên trời trong khung cảnh với sự xuất hiện của nhiều điều kỳ lạ. Quân lính hét lên: “Ông ta không phải là người mà là một con Qủy!” và liên tiếp bắn lên bầu trời. Khi đó, Rinpoche trút bỏ quần áo và dây trói và Ngài không bị tổn hại gì cả. Sau đó, Ngài bay vút lên đỉnh một ngọn núi, và để lại dấu chân của mình trên một tảng đá. Địa điểm đó sau này đã trở thành một địa điểm hành hương nổi tiếng nơi mà những người tín tâm đến đảnh lễ, cúng dường và đi nhiễu. Trên đường tới Ấn Độ, Ngài đã hiển lộ nhiều phép lạ, không bị đánh bại bởi quỷ, thần hay con người và đã nhìn thấy những thánh địa như là cung điện Dorje Sempa.

Dưới sự bảo trợ và lệnh cấm của chính phủ lưu vong Tây Tạng, Rinpoche đã sống tại trại tị nạn ở Orissa. Ngài đã sống ở đó trong nhiều năm và tái thiết lập tu viện của Ngài. Tại mọi thời điểm và trên mọi phương diện, Rinpoche vẫn tiếp tục nỗ lực để ánh sáng giáo Pháp được lan rộng và trao truyền một cách rõ ràng và tinh tế về. Do đó, Ngài đã ban thuốc, sự gia trì, lời khuyên, trợ giúp về mặt nghi quỹ, các quán đảnh và giáo huấn cho tất cả mọi người mà không hề có bất cứ sự phân biệt đẳng cấp – cho dù người đó có là người bình thường bị dày vò bởi bệnh tật, những người thuộc tầng lớp thượng lưu hay hạ lưu. Nói tóm lại, Ngài không phải là người bình thường: Ngài thực hiện những hoạt động giác ngộ và công hạnh của một vị Bồ Tát như chúng ta có thể thấy.

Năm 1984, Rinpoche lần đầu trở về tu viện nơi quê nhà của Ngài ở Neydo Tashi Choling. Ngài đã quay trở lại đó vào năm 1987 để giúp cải tạo lại tu viện. Với lòng bi ẫn, Ngài đã ban các trao truyền, thực hiện các lễ quán đảnh và ban dạy các giáo lý cho cả tu sĩ và cư sĩ. Ngài một lần nữa quay trở lại vào năm 1992 và theo lời thỉnh cầu của các đệ tử, Ngài đã đã ban các giáo huấn thâm sâu về kiến, thiền, hành từ những giáo lý Bồ đề tâm tới “Unification of Mahamudra and Maha-ati”. Mặc dù những suy nghĩ của Ngài đã vượt qua cả nhận thức hay tưởng tượng của một người bình thường, nhưng Ngài đã chọn sống như một hành giả ẩn dật ở Nepal- đất nước Phật giáo gần Bảo tháp Boudhanath .

Việt dịch: Nhóm Rigpa Lotsawas

Hiệu đính: Giác nhiên

Mọi sai sót đều do người dịch và người hiệu đính. Có chút phước đức nhỏ nhoi nào xin hồi hướng cho những ai có duyên với Đức Pháp Vương Karma Chagme Rinpoche đều được Ngài dẫn dắt sớm liễu thoát sinh tử và cầu mong nhờ công đức này các đời hóa thân của Ngài sớm quang lâm đến Việt Nam.

Nguồn: Tiểu sử ngắn Đức Karma Chagme Rinpoche