tinhhoa.net-1l3Vfo-20160503-chuyen-chua-ke-trong-lich-su-p3-phat-thich-ca-mau-ni

Sự thành lập Tăng đoàn thời Đức Phật

Sự hình thành Tăng đoàn

Năm vị đệ tử đầu tiên

Sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề, Đức Phậtý định nhập Niết-bàn vì giáo lý của ngài chứng được thậm thâm vi diệucăn cơ của chúng sanh còn thấp kém, khó có thể giác ngộ nhanh chóng như ngài được. Lúc bấy giờ Brahma đã thỉnh cầu Đức Phật trụ thế để thuyết pháp độ sanh. Vì lòng tưởng đến chúng sanh còn chìm đắm trong bể khổ nên ngài đã ở lại thế gian để thuyết pháp. Ngài liền nghĩ ngay đến hai vị thầy của mình là ông Àvàla Kàlàma và ông Uddka Ramaputta nhưng Brahma đã báo với Đức Phật là cả hai ông đã qua đời cách nay không lâu. Ngài liền nghĩ ngay đến năm người bạn của mình lúc còn tu khổ hạnh là nhóm ông Annata Kondanna (Kiều Trần Như), Bhaddiya (Bạt-đề-ly), Vappa (Thập-lực-ca-diếp), Assaji (A-thấp-bà-trí) và Mahanama (Ma-nam-câu-lợi), họ có thể khai ngộ được giáo pháp của ngài nên ngài đã đến Lộc Uyển là nơi họ tu hành để thuyết pháp; nội dung của bài thuyết phápTứ Thánh đế.

“Trong khoảnh khắc này, mười nghìn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và một hào quang vô lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực chư Thiên”.  Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp Tứ Thánh đế, thành kiến mê lầm tan vỡ, trí tuệ siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập quả vị A-la-hán. Đó là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật Thích Ca. Như vậy, Tam bảo được hình thành từ đây: Phật bảoĐức Phật Thích Ca, Pháp bảo là bài pháp Tứ đế và tăng bảo là nhóm Kiều Trần Như.

Khi Đức Phật thành đạo, đi giáo hóa chúng sanh trong hình ảnh một vị Sa-môn, người ta gọi Ngài là Đại Sa-môn (Maha Samana) và gọi các đệ tử của Ngài là các Sa-môn Thích tử (Sakyaputtaya Samana). Còn các đệ tử tu sĩ của Đức Phật thì tự gọi là Bhikkhu (Tỳ-kheo), là Khất sĩ, với đời sống không nhà, không gia đình.

Cảm hóa Yasa và các bạn hữu của Yasa

Từ vườn Nai, Đức Phật đi đến Benares (Ba-la-nại), nơi đây Ngài đã giáo hóa cho một người thanh niên là Yasa (Da-xá), nam tử của một thương nhân hào phú, chủ tịch một nghiệp đoàn ở Benares, chủ thương nhân buôn bán tơ lụa. Yasa là một thanh niên được nuông chìu mọi mặt quá thỏa mãn với cuộc sống truy hoan nên tâm chàng trở nên trống rỗng. Chàng chán ngán đời sống gia đình đầy xa hoa, nhìn thấy vẻ chán chường cuộc sống thế tục ở thanh niên này, Đức Phật bèn thuyết cho chàng một bài pháp “thuận thứ” Sđd, tr. 175, là các vấn đề dể hiểu như bố thí, trì giới, cõi Thiên và sự bất lợi của dục lạc. Chàng đắc “Pháp nhãn vô trần ly cấu” tức là thấy “bất cứ vật gì chịu quy luật sanh khởi đều phải chịu quy luậthoại diệt”. Chẳng bao lâu khi trở thành đệ tử xuất gia Yasa đã chứng quả A-la-hán.

Bốn người bạn nữa của Tôn giả Yasa cũng trong hàng trưởng giả là Vimàla (Tỳ-ma-la), Subahu (Tu-bà-hầu), Purnajit (Phú-lan-ca-na) và Gavampati (Già-bà-bạt-đề) cũng xin đến quy y, nghe pháp của Phật đều chứng quả A-la-hán. Bấy giờ, giáo đoàn ngoài Đức Phật còn có mười vị A-la-hán. Cũng tại Benares, Đức Phật đã đọ thêm vài chục vị nữa, những vị này ở các nước lân cận, đều là bạn bè thân thích của Tôn giả Yasa, hoặc các vị A-la-hán mới đắc quả. Khi giáo đoàn có được sáu mươi vị A-la-hán, Ngài đã dạy các vị đệ tử hãy đi giáo hóa mỗi người một nơi, chớ đi hai người chung một đường với nhau, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích cho chư thiênloài người mà đem chánh pháp rao giảng khắp nơi. Như vậy, là khi đệ tử của ngài có sáu mươi vị A-la-hán đi giáo hóa chúng sanh đã hình thành nên Tăng đoàn.

Với sứ mênh hoằng pháp mà chủ trương là thành lập Tăng đoàn đã được thực hiện, hẳn nhiên các đệ tử tại gia của Phật cũng rất quan trọng. Phải kể đến là hai thương gia mà Phật đã gặp tại Uruvela là đệ tử đầu tiên nhưng người xin quy ythọ giới tu tại gia chính là cha mẹ của Yasa. Những cư sĩ tại gia là một lực lượng không thể thiếu. Trong sự tiếp độ của Phật cũng phương tiện cho trẻ em được gia nhập Tăng đoàn. Đó là trường hợp của Rahula (La-hầu-la) làm cho vua Tịnh Phạn vô cùng ngạc nhiên vì Ruhula quá nhỏ tuổi so với các vị đệ tử trong Tăng đoàn. Trên tinh thần để tránh những phiền phức về sau nên Phật đã đưa ra một số quy định không cho phép một số trường hợp gia nhập Tăng đoàn (áp dụng cho cả Tăng và Ni), hay còn gọi là mười ba già nạn.

Tỳ kheo ni đầu tiên

Năm 524 trước Tây lịch, tức năm thứ sáu sau khi Phật thành đạo, Vua Tịnh Phạn băng hà. Phật bàn với vương tộc đưa Mahanama anh ruột của Tôn giả Anurudha lên làm vua. Thu xếp việc triều chính xong Phật cùng chúng đệ tử đến rừng Nirodha, ngoại thành Kapilavatthu. Bà Pajapati (Ma-ha-Ba-xà-ba-đề) đến cầu xin Phật cho phái nữ được xuất gia tu hành, sống đời sống không gia đình. Sau ba lần từ chối lời thỉnh cầu của di mẫu, Phật cùng Tăng chúng trở về Vesaly. Bà đã dẫn 500 thể nữ thuộc dòng họ Sakya, tự cạo bỏ tóc, khoát y vàng đến Vesaly xin được xuất gia. Cuối cùng, do Tôn giả Ananda năn nỉ giúp, Đức Phật mới chấp nhận lời thỉnh cầu của bà và nêu ra “Bát kỉnh pháp”, nội dung nhằm đề cao tính chất cao trọng của Tăng đoàn trong việc hướng dẫn giáo dục Ni đoàn mà suốt đời một Tỳ-kheo ni phải tôn trọng. Như vậy, bà Mahapajapati là đệ tử ni đầu tiên của Đức Phật.

Sự hình thành các Tịnh xá

Veluvana (Trúc Lâm tinh xá)

Trong những năm đầu, Đức Phật và hàng đệ tử xuất gia của ngài là những du tăng và sống bằng cách khất thực và thường cư trú qua đêm ở những gốc cây trong những khu rừng nhỏ. Cũng có các vị Tỳ-kheo là nơi trú thân bằng những túp lều lá hay cư trú trong những hang động. Đến năm thứ ba sau ngày Đức Phật thành đạo, số đệ tử xuất gia, tại gia của ngài đã đông đảo và chiếm được sự ưu ái của quần chúng. Vua Bimbisara nước Magadha đã xin quy y Phật và hiến cúng rừng Veluvana (Trúc Lâm) trong đó nhà vua cho xây cất đầy đủ tiện nghi để dùng làm tinh xá, gồm giảng đường, phòng ốc, vật dụng đủ thứ cho Phật cùng giáo đoàn tới cả một ngàn người. Đây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn của việc cư trú định cư. Đến tháng Vesakhà (khoảng tháng 4 – 5 âm lịch) là vào mùa mưa, Đức Phậtchư tăng đến an cư mùa hạ thứ hai ở nơi đây.

Jìvàkàràma (Kỳ Bạt tinh xá)

Uy tín của Phật và Tăng đoàn ngày càng cao, nhiều người đến xin quy y thọ giới tu hành. Những gia chủ khá giả cũng tìm hiểu giáo pháp và biết được lợi lạc của giáo pháp đem lại, nhiều người đã hiến cúng phần đất của mình để xây dựng tinh xá cho Phật cùng chư Tăng. Nhiều tinh xá đã mọc lên, trong sồ đó phải kể đến là Jivakarama (tinh xá Kỳ Bạt), tại ngoại ô thành Rajagadha (Vương-xá), người dâng cúng tinh xá này là Jivaka, một nhà y học, giải phẩu lừng danh thời Đức Phật.

Jetavanàràma (Kỳ Viên tịnh xá)

Tinh xá Kỳ Viên (Jetavanarama), ở Savathi, tinh xá này là trưởng giả Anthapindika (Cấp Cô Độc) hiến cúng mảnh vườn mà ông mua được tử nơi thái tử Kỳ-đà và cây của thái tử Kỳ-đà hiến cúng. Vì vậy, mọi người thường gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên. Sau đó trưởng giả cho xây cất một số tinh xá đồ sộ với đủ loại phòng ốc, giảng đường, bếp, nhà kho, nhà vệ sinh, chỗ đi dạo, giếng lộ thiên, giếng có nắp, bãi tắm, phòng tắm, hồ… Có thể nói tinh xá Ký Viên là tinh xá lớn nhất thời bây giờ, cũng chính nơi đây Đức Thế Tôn đã an cư 25 mùa hạ và nhiều bài pháp quan trọng được ngài thuyết ở nơi này.

Ghositàràma (Cù Sư La tinh xá)

Tinh sá này tại Kosambi, do trưởng giả Ghosita cùng hai người bạn đồng sự là Kukkuta và Pavariya xây cất. Có lẽ tinh xá này được xây cất lớn nhất và vững bền nhất. Tinh xá này là trú xứ liên tục của chư Tỳ-kheo tới hơn một ngàn năm sau mới bị phá hủy do quân Hung tràn vào xâm chiếm Kosambi. Khi xưa nơi đây cũng là nơi Đức Phật đã thuyế nhiều phần kinh quan trọng.

Ngoài những tinh xá đã nêu trên còn có những tinh xá lớn nhỏ khác rãi rác khắp nơi trên vùng Ấn Độnhư Ambapali – Vana , Markathrada ở Vesali; Udambari-Karama ở trên sông Sappini, Kukkutarama, Pavaxikanivana đều ở Kosambi; Nigrodharama (Ni-câu-đà) ở Kapilavatthu; Isipatana (Lộc Uyển) ở Baranasi … Các tinh xá này ngày nay chỉ còn có tên gọi, môt số khác còn lại nền đất cũ, đôi chút vết tích kiến trúc mà các nhà khảo cổ đã ghi lại được dấu tích. Khi xưa chính tại những tinh xá này mà chư tăng được tề tựu bên nhau tu hành. San những tháng an cư kiết hạ nhiều vị đã chứng đạo quả, và cũng chính nơi đó đã xuất thân các bậc thánh xuất chúng đã giáo hóa chúng sanh, đem nhiều lợi lạc cho chư thiênloài người.

Đại Đức Thích Pháp Như